Gà lai chọi Gà_ta_lai

Trước các yêu của người tiêu dùng, các nhà khoa học đã nghiên cứu, lai tạo được nhiều giống gà mới có năng suất cao và chất lượng tốt, trong đó có giống gà lai chọi. đối với giống gà này thì tỷ lệ nuôi sống của gà lai chọi đạt 98,13%, khối lượng gà ở 14 tuần tuổi đạt 2047,00 g/con, sinh trưởng bình quân đạt 21,19g/con/ngày. Tỷ lệ nuôi sống của gà lai chọi cao, đạt 100% trong tuần đầu tiên. Tỉ lệ nuôi sống trung bình đạt 98,13%. Tình hình sinh trưởng của đàn gà lai chọi tương đối tốt và ít biến động khối lượng gà ở 14 tuần tuổi đạt 2047,00 g/con. Sinh trưởng bình quân đạt 21,19g/con/ngày, đạt cao nhất ở tuần 11 là 34,46 g/con/ngày[6].

Gà nòi chân vàng và gà nòi ô tía dòng Ja có ưu thế của giống gà chọi, chúng có sự thuần nhất về giống và độ đồng đều cao về trọng lượng. Chúng có cơ địa săn chắc của giống gà nòi kết hợp với vị ngọt, hương thơm. Gà nòi chân vàng có mỏ vàng, mào nụ hoặc múi khế, lông ôm gọn và đỏ màu mận chín, chân cao vàng đặc trưng thể hiện vóc dáng hình thể của gà đá, trong khi gà nòi ô tía với mào nụ hoặc múi khế, lông ôm gọn màu đen tía, chân cao. Các giống gà nòi có khả năng, kháng bệnh và khả năng thích nghi cao với điều kiện thời tiết, khí hậu cũng như tập quán chăm sóc, nuôi dưỡng nhiều vùng miền Việt Nam[7].

Thời gian sinh trưởng của gà nòi ô tía từ 100 - 105 ngày, đạt khối lượng cơ thể bình quân 1,8 - 2,2 kg/con, tỷ lệ tiêu tốn thức ăn 2,6 - 2,8 kg/1 kg tăng trọng. Nuôi 100 ngày, giống gà Ja đạt trọng lượng bình quân từ 1,8 đến 2,0 kg, tỷ lệ tiêu tốn thức ăn từ 2,6 đến 2,8 kg cho một kg tăng trọng[5]. Tiêu tốn thức ăn 2,6–2,8 kg thức ăn/1 kg tăng trọng. Nhu cầu dinh dưỡng từ 01-20 ngày tuổi, năng lượng trao đổi từ 3100Kcal/kg. Từ 21-60 ngày tuổi năng lượng trao đổi là 3.000 Kcal/kg. Từ 61 ngày tuổi năng lượng trao đổi 2950 Kcal/kg[7].